Thơ Tản Đà

LÊN SÁU

Sách quốc ngữ – Chữ nước ta,

Con cái nhà – Đều phải học.

Miệng thì đọc- Tai thì nghe

Đừng ngủ nhè -Chớ láu táu

Con lên sáu – Đang vỡ lòng

Học cho thông – Thầy khỏi mắng.

 

Trong trời đất – Nhất là người

Ở trên đời – Hơn giống vật

Con bé thật – Chưa biết gì

Còn ngu si – Phải dạy bảo

Cho biết đạo – Mới nên thân

Sau lớn dần – Con sẽ khá

 

Ai đẻ ta – Cha cùng mẹ

Bồng lại bế – Thương và yêu

Ơn nhường bao – Con phải ngẫm

Áo mặc ấm – Mẹ may cho

Cơm ăn no – Cha kiếm hộ

Cha mẹ đó – Là hai thân

 

Hai thân là – Là thân nhất

Trong trời đất – Không ai hơn

Con biết ơn – Nên phải hiếu

Nghĩa chữ hiếu – Đạo làm con

Con còn non – Nên học trước

Đi một bước – Nhớ hai thân

 

Con còn nhỏ – Có mẹ cha

Lúc vào ra – Được vui vẻ

Con còn bé – Mẹ hay chiều

Thấy mẹ yêu – Chớ làm nũng

Đã đi học – Phải cho ngoan

Hay quấy càn – Là chẳng hiếu.

 

Con còn bé – Mẹ hay lo

Ăn muốn cho – Lại sợ độc

Con ốm nhọc – Mẹ lo thương

Tìm thuốc thang – Che nắng gió

Con nghĩ đó – Sao cho ngoan

Hay ăn càn – Là chẳng hiếu

 

Anh em ruột – Một mẹ cha

Mẹ đẻ ra – Trước sau đó

Cùng máu mủ – Như tay chân

Nên yêu thân – Chớ ganh tị

Em coi chị – Cũng như anh

Trước là tình – Sau có lễ

 

Người trong họ – Tổ sinh ra

Ông đến cha – Bác cùng chú

Họ nội đó – Là tông chi

Cậu và dì – Về họ mẹ

Con còn bé – Nên dạy qua

Còn họ xa – Sau mới biết

 

Người trong họ – Có bề trên

Lạ hay quen – Đều phải kính

Có khách đến – Không được đùa

Ai cho quà – Đừng lấy vội

Ông bà gọi – Phải dạ thưa

Phàm người nhà – Không được hỗn

 

Con bé dại – Mãi vui chơi

Muốn ra người – Phải chăm học

Miệng đang đọc – Đừng trông ngang

Học dở dang – Đừng có chán

Học có bạn – Con dễ hay

Mến trọng thầy – Học chóng biết

 

Dạy con biết – Phép vệ sinh

Ăn quả xanh – Khó tiêu hoá

Uống nước lã – Có nhiều sâu

Áo mặc lâu – Sinh ghẻ lở

Mặt không rửa – Sinh u mê

Đang mùa hè – Càng phải giữ

 

Các giống vật – Thật là nhiều.

Như con hươu – Ở rừng cỏ

Như con chó – Nuôi giữ nhà

Con ba ba – Loài máu lạnh

Loài có cánh – Như chim câu

Còn loài sâu – Như bọ róm

 

Cây và cỏ – Có khác loài

Trông bề ngoài – Cũng dễ biết

Như cây mít – Có nhiều cành

Lúa, cỏ gianh – Có từng đốt

Còn trong ruột – Lại khác nhau.

Vài năm sau – Con biết kỹ

 

Đá bờ sông – Không sống chết

Không có biết – Không có ăn

Không người lăn – Cứ nằm đây

Như đá cuội – Như đá xanh

Như mảnh sành – Như đất thó

Các vật đó – Theo loài kim

 

Các loài kim – Tìm ở đất

Nhất là sắt – Nhì là đồng

Làm đồ dùng – Khắp trong nước

Như vàng bạc – Càng quý hơn

Đúc làm tiền – Để mua bán.

Ai có vạn – Là người giàu.

 

Vốn xưa là – Nhà Hồng Lạc

Nay tên nước – Gọi Việt Nam

Bốn nghìn năm – Ngày mở rộng

Nam và Bắc – Ấy hai miền

Tuy khác tên – Đất vẫn một

Lào, Miên, Việt – Là Đông Dương

 

Đầu trị nước – Đức Kinh dương

Truyển Hùng Vương – Mười tám chúa

Qua mấy họ – Quân Tàu sang

Vua Đinh hoàng – Khai nghiệp đế

Trải Đinh, Lý – Đến Trần, Lê

Nay nước ta – Là nước Việt

 

Chữ nước ta – Ta phải học

Cho trí óc – Ngày mở mang

Muốn vẻ vang – Phải làm lụng

Đừng lêu lổng – Mà hư thân

Nước đang cần – Người tài giỏi

Cố học hỏi – Để tiến nhanh

 

Vừa ích mình – Vừa lợi nước

Chớ lùi bước – Là kẻ hèn

(Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản, 1924)

Bài thơ giáo khoa do Tản Đà làm cho trẻ em lên sáu tuổi, viết năm 1919

Sưu tầm