(Cv 1:1-11; Ep 1:17-23; Lc 24:46-53)
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng Lễ Chúa Thăng Thiên, hay còn gọi là Lễ Chúa về Trời [Thiên Đàng], nơi mà ai trong chúng ta cũng mong ước và cố gắng đạt đến. Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hướng lòng về Thiên Đàng, quê hương thật của chúng ta. Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sự kiện Chúa Thăng Thiên và xem Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua các bài đọc và ý nghĩa của Phụng Vụ hôm nay.
Để hiểu bài đọc 1, chúng ta cần nối kết với bài Tin Mừng hôm nay. Nói cách cụ thể, bài đọc 1 tiếp nối câu chuyện được trình thuật trong bài Tin Mừng. Chúng ta thấy chi tiết này trong câu đầu tiên của bài đọc 1: “Thưa ngài Thêôphilô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1:1-2). “Quyển thứ nhất” ám chỉ đến Tin Mừng Thánh Luca. Tin Mừng Thánh Luca kể lại cuộc đời Chúa Giêsu cho đến “ngày Người được rước lên trời,” điều được trình bày trong Tin Mừng hôm nay. Theo truyền thống, Thánh Luca là tác giả của Tin Mừng Thánh Luca và sách Công Vụ Các Tông Đồ. Trong bài đọc 1, Thánh Luca trình bày cho chúng ta những điều xảy ra “trước ngày ấy,” ngày Ngài được rước lên trời. Có hai sự kiện chính trong những ngày ấy, đó là (1) việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ để “chứng tỏ cho các ông thấy rằng Người vẫn sống sau khi chịu khổ hình” (Cv 1:3), và (2) việc hứa ban Thánh Thần cho các ông: “Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại để chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:4-5). Sự kiện thứ nhất [Chúa Giêsu vẫn sống sau khi chịu khổ hình] trở thành nội dung chính của sứ điệp Tin Mừng mà các môn đệ rao giảng cho muôn dân; còn sự kiện thứ hai nói về lời hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ, Đấng sẽ đồng hành và trợ giúp các ông trong việc rao giảng Tin Mừng.
Một chi tiết trong bài đọc 1 cần chúng ta lưu ý, đó là hình ảnh Chúa Giêsu được đưa lên trời “và có đám mây quyện lấy Người.” Chi tiết này chứng tỏ việc lên trời chính là sự mạc khải của Ngài. Hình ảnh đám mây gợi cho chúng ta nhớ đến đám mây bao phủ khi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Lc 3:21-22) và biến hình (Lc 9:28-36), và từ đám mây tiếng Chúa Cha phán ra. Trong Kinh Thánh, “đám mây” là sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhìn từ khía cạnh này, khi chúng ta được lên trời là được Thiên Chúa “quyện lấy”. Những chi tiết tiếp theo bổ sung cho bài Tin Mừng vì chúng trình bày cách chi tiết những gì xảy ra đang khi Chúa Giêsu được cất lên trời: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:9-11). Những lời này nói cho chúng ta biết Chúa Giêsu lên trời không phải để bỏ chúng ta “mồ côi,” nhưng Ngài sẽ đến với chúng ta trong “đám mây,” trong tình yêu của Thiên Chúa. Liệu chúng ta có nhận ra Ngài khi Ngài đến với chúng ta không?
Bài đọc 2 trình bày cho chúng ta về tâm tình của Thánh Phaolô dành cho các tín hữu Êphêsô và lời cầu xin của ngài với Thiên Chúa để họ nhận ra hai điều: “đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời” (Ep 1:18-20). Thánh Phaolô cầu xin cho các tín hửu Êphêsô nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng trỗi dậy từ cõi chết và ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời là “niềm hy vọng họ đã nhận được” và “gia nghiệp vinh quang phong phú mà họ được chia sẻ cùng Dân Thánh. Với trọn tâm tình, Thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Êphêsô về Đức Kitô và Thiên Đàng. Tuy nhiên, như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trỗi dậy từ cõi chết [chết cho tội lỗi], để được đón nhận vinh quang trên trời.
Một điểm khác đáng để chúng ta suy gẫm là việc Thánh Phaolô dạy các tín hữu Êphêsô về mầu nhiệm thân mình của Đức Giêsu Kitô: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:22-23). Nhìn từ khía cạnh “nhiệm thể Đức Kitô,” chúng ta có thể nói rằng: Nếu Chúa Giêsu là Đầu và đang ở trên trời, thì thân mình Ngài là Hội Thánh cũng phải theo Ngài. Các Giáo Phụ dạy rằng: Sự kiện Chúa Giêsu lên trời nhắc nhở chúng ta, những chi thể của nhiệm thể Đức Kitô là Hội Thánh, quê hương thật của chúng ta là Nước Trời, vì Đầu đi đâu thì thân mình phải theo đó. Đây là thách đố lớn cho mỗi người chúng ta, những người mong ước về Thiên Đàng, nhưng không có những quyết định mạnh mẽ để vượt qua những chướng ngại cản bước trên đường về thiên đàng, đó là những thói hư, tật xấu của chúng ta. Hãy đến với Đức Kitô, Đấng sẽ làm cho chúng ta được viên mãn trong Ngài.
Tin Mừng hôm nay được trích từ đoạn kết của Tin Mừng Thánh Luca. Chúng ta có thể nhận ra ba ý tưởng chính trong đoạn trích này: (1) Chúa Giêsu nhắc lại cho các môn đệ về những gì đã xảy ra cho Ngài và đó là điều các ông phải làm chứng cho mọi người biết (x. Lc 24:46-48); (2) Chúa Giêsu hứa ban quyền năng từ trời cao để trợ giúp các môn đệ trong công việc làm chứng cho Ngài (x. Lc 24:49); (3) Chúa Giêsu được đưa lên trời và các môn đệ bắt đầu cuộc sống làm chứng cho Chúa qua niềm vui và việc tôn vinh Ngài (x. Cv 24:50-53). Chúng ta cùng nhau tìm hiểu cách chi tiết hơn ba ý tưởng trên, hầu rút ra được những điều hữu ích cho cuộc sống.
Một điều mà Chúa Giêsu đã ba lần tiên báo cho các môn đệ về chính mình: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24:46). Trong lời tiên báo này, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài không phải là Đấng Kitô đến với uy quyền để thống trị, nhưng đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người. Nói cách khác, Ngài phải chịu đau khổ rồi mới đến được vinh quang: qua thập giá đến vinh quang. Đây chính là điều mà các môn đệ phải “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân.” Họ không chỉ rao giảng về một Đức Kitô vinh quang, Đấng ngự trên “trời cao,” nhưng còn phải rao giảng về một Đức Kitô, Đấng đã trở nên mọi sự như mọi người, ngoại trừ tội lỗi, Đấng đã chịu đau khổ như con người, đã chết, đã phục sinh và nay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta được nhắc nhở để ý thức rằng khát mong về Thiên Đàng không làm chúng ta quên đi những đau khổ và thách đố của đời sống thực tại. Nhưng mơ ước về Thiên Đàng sẽ làm chúng ta tìm ra ý nghĩa trong những đau khổ và nước mắt của đời sống hằng ngày.
Để đem thực tại Nước Trời vào trong đời sống thường ngày, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ rao giảng về Ngài cho muôn dân và kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Chính các môn đệ là những nhân chứng về sự sám hối và sự tha thứ của Thiên Chúa. Thật vậy, không ai có thể làm chứng về sự “thay đổi” [sám hối] và cảm nghiệm cách sâu xa sự tha thứ của Chúa Giêsu cho bằng các môn đệ, những người đã chối và bỏ Ngài trong cuộc khổ nạn. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta có thể nói rằng: Thiên Đàng hiện diện những nơi có sự sám hối và tha thứ. Nói cách cụ thể hơn, khi chúng ta thay đổi cõi lòng của mình từ ghen ghét và hận thù thành yêu thương và tha thứ, chúng ta đang biến Thiên Đàng thành hiện thực trong cuộc sống của mình và cho những người đang sống với chúng ta.
Điểm thứ hai là việc Chúa Giêsu nói về “bản hợp đồng” giữa Ngài và các môn đệ: “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Như chúng ta biết, đối với Thánh Luca, Chúa Thánh Thần có một vai trò quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu và Giáo Hội sơ khai. Nhiều học giả Kinh Thánh gọi Tin Mừng của Thánh Luca là “Tin Mừng về Chúa Thánh Thần.” Dù có thế nào đi nữa, sự kiện Chúa Chúa Giêsu lên trời liên kết chặt chẽ [không thể tách rời] với lời hứa ban Chúa Thánh Thần. Với những lời trên, chúng ta thấy “điều kiện” của bản hợp đồng là: Về phía Chúa Giêsu, Ngài sẽ gởi cho các môn đệ Chúa Thánh Thần; còn về phía các môn đệ, các ông phải ở lại trong thành Giêrusalem cho đến khi Chúa Thánh Thần được ban cho các ông. Chi tiết làm chúng ta lưu ý ở đây là việc “ở lại trong thành Giêrusalem,” trung tâm của Tin Mừng Thánh Luca và Công Vụ Các Tông Đồ. Điều này gợi cho chúng ta nhớ về sự kiện Chúa Giêsu ở trong Đền Thánh Giêrusalem khi Ngài lên 12 tuổi – Giêrusalem là nơi có “nhà Cha của Ngài” (x. Lc 2:49). Như vậy, để đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ [và chúng ta] phải ở lại trong “nhà Thiên Chúa,” hay đúng hơn, trong cung lòng và trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây chính là thái độ chúng ta cần có trong tuần này, để chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trong tuần tới.
Trong phần cuối, Chúa Giêsu được đưa lên trời trong khi “giơ tay chúc lành” cho các môn đệ. Hành động và thái độ của các môn đệ trước sự kiện này là bái lạy Ngài. Hai cử chỉ này tạo nên hành vi thờ phượng mà chúng ta thực hiện mỗi khi chúng ta đến với Chúa: Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta, còn chúng ta bái lạy và tôn thờ Ngài. Điều làm chúng ta ngạc nhiên ở đây là thái độ vui mừng của các môn đệ: Họ “trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:52-53). Thông thường, các cuộc chia tay luôn mang lại nỗi buồn và nước mắt. Còn các môn đệ thì “trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ.” Tai sao họ hoan hỷ? Chi tiết này nhắc lại cho chúng ta về câu chuyện của hai môn đệ trên đường Emmau. Như chúng ta đã biết, trong Tin Mừng Thánh Gioan, hành trình của Chúa Giêsu là từ “bên ngoài Giêrusalem [Galilee] vào Giêrusalem.” Những ai đi ngược với hành trình này sẽ kết thúc trong đau thương và nước mắt. Chúng ta nhận ra điều này trong câu chuyện của người Samaria nhân hậu (x. Lc 10:25-37) và hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24-13-35). Nhưng những người đi cùng “hành trình” của Chúa Giêsu, họ sẽ có được niềm vui của ơn cứu độ, niềm vui của việc lên Nhà Chúa Ta: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi, ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa” (Tv 122:1). Thật vậy, khi chúng ta đi trong đường lối của Thiên Chúa, chúng ta sẽ hoan hỷ và vui mừng dù phải đối diện với nhiều thử thách và đau buồn. Còn khi không đi theo đường lối của Ngài, chúng ta sẽ kết thúc trong buồn sầu và nhất là sẽ hư mất đời đời.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB